Phật giáo (chữ Hán: 佛教) là
một tôn giáo bao gồm một loạt các truyền thống, tín ngưỡng và phương pháp tu tập
dựa trên lời dạy của một nhân vật lịch sử là Tất-đạt-đa Cồ-đàm (悉達多瞿曇). Tất-đạt-đa
Cồ-đàm thường được gọi là Phật hay người giác ngộ. Theo sách vở Phật giáo cũng
như các tài liệu khảo cổ đã chứng minh, Tất-đạt-đa Cồ-đàm đã sống và giảng đạo ở
vùng đông bắc Ấn Độ xưa (nay thuộc Nepal) từ khoảng thế kỉ thứ 6 TCN đến thế kỉ
thứ 4 TCN.
Sau khi Tất-đạt-đa Cồ-đàm
qua đời thì Phật giáo bắt đầu phân hóa ra thành nhiều nhánh và nhiều hệ tư tưởng,
với nhiều sự khác biệt:
Phật giáo Nguyên thủy, còn gọi
là Phật giáo Nam Tông, Phật giáo Thượng tọa, Phật giáo Tiểu thừa, Thanh-văn thừa.
Đây là nhánh Phật giáo có hệ thống kinh điển được coi là gần nhất với giáo lý
nguyên thủy của đạo Phật.
Phật giáo Đại thừa, còn gọi
là Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Đại chúng, Phật giáo Phát triển.
Phật giáo Chân ngôn, còn gọi
là Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Mật tông, Phật giáo Kim cương thừa.
Phật giáo Nguyên thủy phát
triển mạnh ở Sri Lanka và Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar). Đại
thừa phát triển ở Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam)
và bao gồm nhiều phân nhánh nhỏ hơn như Tịnh độ tông, Thiền tông, Thiên thai
tông. Còn Kim cương thừa phát triển ở Tây Tạng, Mông Cổ và Bhutan. Mặc dù phát
triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay Đạo Phật được tìm thấy ở khắp thế giới.
Ước tính số người theo đạo Phật vào khoảng 350 triệu đến 700 triệu người.
Phật giáo là một tôn giáo
mang tính duy lý và vô thần. Hệ thống giáo lý của Phật giáo không hướng đến sự
sùng bái thần linh mà hướng đến nhận thức chân lý hay còn gọi là giác ngộ.
Chính sự nhận thức đúng đắn bản ngã và thế giới xung quanh sẽ giúp con người được
giải thoát. Các trường phái Phật giáo khác nhau ở quan điểm về bản chất của con
đường đưa đến giác ngộ để được giải thoát, tính chính thống của các bài giảng đạo
và kinh điển, đặc biệt là ở phương thức tu tập. Vì hướng đến việc nhận thức
đúng đắn bản ngã và thế giới khách quan nên hệ thống triết lý Phật giáo chứa đựng
nhiều quan điểm bản thể luận và nhận thức luận. Siêu hình học trong triết học
Phật giáo đã phát triển đến một trình độ cao. Với Phật giáo, triết học Ấn Độ đã
đi trước triết học phương Tây trên 1000 năm. Tại phương Tây, đến thời kỳ Khai
sáng triết học mới đạt đến trình độ nhận thức của triết học Ấn Độ. Cũng như Nho
giáo và triết học phương Tây hiện đại, Phật giáo là một hệ thống triết học mang
tính khai sáng nhằm hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ.
Giáo lý cốt lõi
*Tứ diệu đế
Cơ sở tư tưởng và cốt lõi của
Phật pháp là tứ thánh đế. Bốn chân lý giải thích bản chất của sự khổ trong luân
hồi (輪回), nguyên nhân của sự khổ, và làm thế nào để giải trừ đau
khổ. Nếu như có một ngọn lửa tự cháy giữa hư không, vô nhân, vô duyên, vậy thì
khi muốn dập tắt ngọn lửa ấy là điều không thể nào, thế nhưng ngược lại, trong
thực tế ngọn lửa nào cháy lên cũng có nhân, có duyên của: chất đốt, không khí,
v.v.. Khi chúng ta loại bỏ các điều kiện đó thì ngọn lửa cũng tắt, tương tự như
vậy, Đức Phật dạy Ở đời thực có khổ đau (Khổ đế), khổ đau cũng có nguyên nhân
(Tập đế), khổ đau có thể dập tắt (Diệt đế), và Bát chánh đạo - Trung đạo là con
đường đưa đến khổ diệt (Đạo đế). Tứ diệu đế là sự nhận thức đúng đắn các loại
khổ đau, nguyên nhân dẫn đến khổ đau, trạng thái không có khổ đau và con đường
để thoát đau khổ. Con người chỉ thoát khỏi đau khổ nhờ nhận thức đúng về đau khổ.
Thoát khỏi vô minh thì hết đau khổ. Đây là quan điểm triết học mang tính duy
lý.
-Khổ đế (苦諦་),
chân lý về sự Khổ: đau trên thân gồm: sinh, lão, bệnh, tử; khổ tâm gồm: sống
chung với người mình không ưa, xa lìa người thân yêu, mong muốn mà không được,
chấp vào thân ngũ uẩn. Khổ đau là một hiện thực, không nên trốn chạy, không nên
phớt lờ, cũng không nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau trước tiên phải
thừa nhận nó, cố gắng phân tích nó để nhận thức nó một cách sâu sắc.
-Tập đế (集諦་),
chân lý về sự phát sinh của khổ: khổ đau đều có nguyên nhân thường thấy do tham
ái, sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng nguyên nhân sinh ra khổ, nguồn
gốc sâu xa sinh ra khổ trong sinh tử luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt
xích liên quan nằm trong 12 nhân duyên.
-Diệt đế (滅諦),
chân lý về diệt khổ: là trạng thái không có đau khổ, là một sự an vui giải
thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi chấm dứt dục vọng, và chấm dứt
vô minh.
-Đạo đế (道諦),
chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đi đến sự diệt khổ là con
đường diệt khổ tám nhánh, Bát chính đạo. Phương tiện hay pháp môn để thành tựu
con đường bát chi thánh đạo là 37 phẩm trợ đạo.
*Bát chính đạo
- Nhóm trí tuệ:
+Chính kiến (正見):
hiểu biết chân chính: hiểu biết về nhân quả, duyên khởi, hiểu biết về sự vật hiện
tượng chân thực, như chúng đang là, không kèm theo cảm xúc, cảm tính, hiểu biết
4 chân lý về khổ và cách thoát khổ, từ đó biểu hiện thái độ sống không làm khổ
mình, khổ người.
+Chính tư duy (正思唯):
suy nghĩ hướng đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí và giác ngộ.
- Nhóm đạo đức:
+Chính ngữ (正語་): lời
nói chân chính: lời nói sự thật, lời nói hòa hợp, đoàn kết, mang tính xây dựng,
mang lại an vui hạnh phúc cho người khác.
+Chính nghiệp (正業):
hành vi chân chính: không sát sanh, không trộm cắp, không ngoại tình, Các hành
vi được khuyến khích: chia sẻ sở hữu hợp pháp với những người kém may mắn hơn,
sống chung thủy một vợ một chồng, giữ sức khỏe để chăm sóc bảo vệ người thân.
+Chính mạng (正命):
nghề nghiệp chân chính để nuôi sống thân mạng: không làm nghề đồ tể vì giết động
vật hàng loạt.
+Chính tinh tấn (正精進): nỗ
lực kiên trì chân chính: tiếp tục làm những việc thiện đang làm, hiện thực hóa
những việc thiện có ý định làm, từ bỏ những việc bất thiện đang làm, loại bỏ ý
định về những việc bất thiện sẽ làm.
- Nhóm thiền định:
+Chính niệm (正念): sự
làm chủ các giác quan trong các tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi, nói, nín, động, tịnh,
thức và ngủ, làm chủ cảm xúc và thái độ sống.
+Chính định (正定་): 4
tầng thiền: sơ thiền (ly dục ly ác pháp sinh hỷ lạc, có tầm, có tứ), nhị thiền
(diệt tầm, diệt tứ, định sinh hỷ lạc, nội tĩnh, nhất tâm), tam thiền (ly hỷ,
trú xả), tứ thiền (xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh) cùng với những phương
pháp hỗ trợ như tứ niệm xứ, quán niệm hơi thở, định sáng suốt... được đề cập
trong kinh tạng Pali. Sau khi đã đạt tứ thiền, hành giả dẫn tâm về Tam minh gồm:
Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Chứng tam minh xong, hành giả giải
thoát hoàn toàn, thành tựu thánh quả A-la-hán, các vị A-la-hán tuyên bố
"Tái sinh đã tận, hạnh thánh đã thành, việc nên đã làm, không còn trở lại
sinh tử này nữa".
Những tư tưởng cơ bản của Phật-đà
đều được nhắc lại trong các kinh sách, nhưng có khi chúng được luận giải nhiều
cách khác nhau và vì vậy ngày nay có nhiều trường phái khác nhau, hình thành một
hệ thống triết lý hết sức phức tạp.
*Giáo pháp đạo Phật được tập
hợp trong Tam tạng (三藏), bao gồm:
-Kinh tạng (經藏་)
bao gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử. Kinh tạng tiêu biểu
văn hệ Pali được chia làm năm bộ: 1. Trường bộ kinh, 2. Trung bộ kinh, 3. Tương
ưng bộ kinh, 4. Tăng chi bộ kinh và 5. Tiểu bộ kinh.
-Luật tạng (律藏་),
chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già cũng như các giới luật của người xuất
gia, được xem là tạng sách cổ nhất, ra đời chỉ vài mươi năm sau khi Phật nhập
Niết-bàn.
-Luận tạng (論藏)—cũng
được gọi là A-tì-đạt-ma—chứa đựng các quan niệm đạo Phật về triết học và tâm lý
học. Luận tạng được hình thành tương đối trễ, có lẽ là sau khi các trường phái
đạo Phật tách nhau mà vì vậy, nó không còn giữ tính chất thống nhất.
-Tăng-già (僧伽) của
đạo Phật gồm có Tỳ Kheo (比丘), Tỳ Kheo Ni (比丘尼) và
giới Cư sĩ.
*Nhân quả và luân hồi
Trong đạo Phật có hai khái
niệm quan trọng là nhân quả và luân hồi.
-Nhân Quả:
Đạo Phật giải thích mọi sự
việc đều là sự biểu hiện của luật nhân quả. Nghĩa là mọi sự việc đều là kết quả
từ nguyên nhân trước đó. Sự việc đó chính nó lại là một nguyên nhân của kết quả
sau này. Nhân có khi còn gọi là nghiệp, và một khi đã gieo nghiệp thì ắt sẽ gặt
quả (để phân biệt tích cực với tiêu cực một cách tương đối thì có khái niệm
"thuận duyên", "nghịch duyên" hoặc "Thiện nghiệp",
"Ác nghiệp"). Từ nhân đến quả có yếu tố duyên. Duyên là điều kiện thuận
lợi, là cơ hội cho phép quả xảy ra (thuận duyên) hoặc điều kiện cản trở, trì
hoãn quả tới chậm hơn, đôi khi triệt tiêu quả (nghịch duyên). Các tương tác
nhân quả phức tạp diễn ra song song hoặc nối tiếp nhau gọi là trùng trùng duyên
khởi.
Nhân quả tương tác theo luật
tương ứng: nhân nào thì quả nấy; hạt táo không thể sinh ra quả bưởi, hạt xoài
không thể sinh ra quả đào. Kinh Phật ghi rằng "Nếu cái này tồn tại thì cái
kia hình thành. Cái này phát sinh thì cái kia phát sinh. Cái này không tồn tại
thì cái kia không hình thành. Cái này diệt thì cái kia diệt". Các nguyên
nhân cùng loại nhưng trái chiều sẽ tương tác, bù trừ nhau, cái nào mạnh hơn sẽ
tạo ra kết quả sau khi bù trừ xong. Học thuyết nhân quả dựa trên kinh tạng
nguyên thủy lý giải rằng nghiệp đã gieo có thể chuyển được do gieo nhân mới đối
lập với nhân cũ.
Con người dù không thể thấy
được toàn bộ, không thể lý giải được hoàn toàn nhân quả này thì mối quan hệ
nhân quả vẫn là một quy luật tự nhiên khách quan. Có những người dù không nhận
thức được, thậm chí có thể họ không tin vào nhân quả, nhưng quy luật này vẫn vận
hành và chi phối vạn vật, bao gồm chính bản thân họ. Tuy nhiên khác với khoa học
hiện đại, khi lý giải về cuộc sống của con người, Phật giáo cho rằng quan hệ
nhân quả là xuyên suốt thời gian chứ không chỉ trong một kiếp sống. Việc này dẫn
đến khái niệm luân hồi.
-Luân hồi:
Luân hồi chỉ cho việc tâm thức
trải qua nhiều kiếp sống. Chết là hết một kiếp, tâm thức mang theo nghiệp đi
tái sinh kiếp mới. Hình thức của một kiếp sống là khác nhau, có thể chuyển đổi
giữa các loài, các thế giới (cõi súc sinh, cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la…).
Quan hệ nhân quả quyết định cách thức luân hồi, hay nói cách khác tùy nghiệp đã
tạo mà sẽ luân hồi tương ứng để nhận quả.
Chết là hết một kiếp, nhưng
lại là khởi đầu của một kiếp khác, nối tiếp vô cùng tận. Dù có hết một kiếp sống
thì vẫn sẽ tiếp tục luân hồi sang kiếp khác để nhận quả. Còn luân hồi là còn khổ.
Đạo Phật chỉ rằng luân hồi chỉ có thể bị phá vỡ nếu giác ngộ, nghĩa là có thể
thoát khỏi luân hồi sinh tử nếu biết cách "đoạn diệt" các nguyên nhân
dẫn dắt luân hồi, nghĩa là không còn quan hệ nhân quả. Đạo Phật gọi đó là giải
thoát và toàn bộ Phật pháp đều nhằm chỉ ra con đường giải thoát, như Phật đã
nói "Như mặn là vị của nước biển, còn vị của đạo ta là giải thoát".
*Theo giáo lý nguyên thủy
thì một hành giả đạt bồ-đề, giác ngộ khi người đó đạt được một cái nhìn vạn vật
như chúng đích thật là (Như thật tri kiến) tức là đạt đến chân lý, với một tâm
thức thoát khỏi phiền não và si mê. Trong các loại phiền não thì tham ái và vô
minh, cũng được gọi là si, là những loại nặng nhất. Tham, sân và si được gọi
chung là ba chất độc (tam độc), vì chúng gây ảnh hưởng lớn đến tâm thức. Vì phiền
não vây phủ tâm thức nên hành giả gắng sức tiêu diệt chúng, và để tiêu diệt được
thì người đó phải gắng sức đạt được tri kiến chân chính bằng cách thực hành bát
chính đạo.
Cách thực hành trong Phật
giáo cũng được phân chia theo tam học, cụ thể là tu học về giới (tăng thượng giới
học), định (tăng thượng định học) và tuệ (tăng thượng huệ học). Trước hết hành
giả phát lòng tin (tín, sa. śraddhā) vào tam bảo, giữ giới luật đúng theo địa vị
của mình (cư sĩ, sa-di hoặc tỉ-khâu). Qua đó mà ông ta chuẩn bị cho cấp tu học
kế đến là thiền định. Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền (tứ thiền). Một số
cách thực hành được nhắc đến nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên, đó là tứ niệm
xứ, Tứ vô lượng tâm, tức là trau dồi bốn tâm thức Từ, Bi, Hỉ và Xả (cũng được gọi
là Tứ Phạm trú). Cách thiền định ở cấp này được phân làm hai loại: 1. Chỉ là
phương pháp lắng đọng tâm, và 2. Quán là cách thiền quán lập cơ sở trên chỉ, tức
là có đạt định an chỉ xong mới có thể thành tựu công phu Quán. Phần thứ ba của
tam học là tuệ học, lập cơ sở trên thiền quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền
định ở đây có thể là tứ diệu đế, nguyên lý duyên khởi hoặc ngũ uẩn. Ai hoàn tất
Tam học này sẽ đạt được sự hiểu biết về giải thoát, biết là mình đã đạt giải
thoát. Phiền não của hành giả này đã được tận diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt
(vô lậu) và hành giả ấy đạt tứ thánh quả A-la-hán.
*Phật giáo được du nhập vào
Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở
Hưng Yên ngày nay) học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh)
là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Các
truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự
giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong khoảng các năm 168-189.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào
Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh,
được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời
nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy
thoái. Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn
xây chùa, nhưng vì mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20,
mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh
mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư
Khánh Hòa và Thiện Chiếu.
*Lịch sử Phật giáo Việt Nam
trải qua bốn giai đoạn:
- Từ đầu công nguyên đến hết
thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp;
-Thời Nhà Lý - Nhà Trần là
giai đoạn cực thịnh;
-Từ đời Hậu Lê đến cuối thế
kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
-Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là
giai đoạn phục hưng.
Phật giáo Bắc Tông có ba
tông phái được truyền vào Việt Nam là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông.
*Trung Quốc
Theo sử liệu cho thấy Phật
giáo được giới thiệu đến Trung Quốc do các nhà buôn hay các nhà sư truyền giáo
người Ấn qua các ngã đường biển và đường bộ. Về đường biển thì xuất phát từ các
hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Sri Lanka, Nam Dương để vào hải cảng Quảng
Đông. Về đường bộ, còn gọi là con đường tơ lụa (Silk road) nối liền Đông Tây,
di chuyển bằng lạc đà, xuất phát từ miền Đông Bắc Ấn, rồi băng qua các sa mạc ở
Trung Á để tới Lạc Dương (kinh đô của nhà Hán).
Theo biên niên sử thì Phật
giáo truyền đến Trung Quốc vào thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên từ Trung Á nhằm
niên hiệu Nguyên Thọ đời vua Hán Ai Đế nhà Tây Hán, nhưng Phật giáo không truyền
bá rộng rãi cho đến năm 65 Công nguyên, dưới triều vua Hán Minh Đế (niên hiệu
Vĩnh Bình thứ 10 nhà Hậu Hán, 25-220 công nguyên), thì Phật giáo mới bắt đầu cắm
rễ và phát triển ở Trung Quốc. Vì muốn thần dân tu học Phật pháp nên vua Minh Đế
đã cử một phái đoàn gồm 18 người đến Ấn Độ để thỉnh cầu hai Thiền sư người Ấn
là Ca Diếp Ma Đằng (Kàsyapama'tanga) và Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa) đến Trung
Quốc hoằng pháp. Hai vị Tăng người Ấn này đã mang đến Trung Quốc bộ Kinh Bốn
Mươi Hai Chương và trú ngụ tại chùa Bạch Mã (ngôi chùa đầu tiên ở Trung Quốc do
vua Minh Đế xây dựng, đến nay vẫn còn) ở Lạc Dương để hoằng dương Phật Pháp.
Tiếp theo sau hai nhà sư Ca
Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan, những nhà truyền giáo khác đến Trung Quốc là An
Thế Cao (An Shih-Kao), là người An Tức (Parthian, thuộc Bắc Ấn), Chi Lâu Ca Sấm
(Lokaksema), Trúc Phật Sóc (Sangha Buddha) đến Trung Quốc vào năm 148 Công
nguyên, mang theo nhiều kinh điển hệ phái Đại thừa để phổ biến nơi vùng đất mới
này.
Đầu thế kỷ 20 là thời điểm
chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 đã tạo ra một
làn sóng mới về dân chủ tự do cho nhân dân Trung Quốc thoát khỏi ách thống trị
của chế độ phong kiến. Năm 1912, Tổng hội Phật giáo Trung Quốc (Chinese
Buddhist Association) ra đời tại Thượng Hải, một năm sau đó một hội khác ra mắt
tại Bắc Kinh là Trung ương Phật giáo Công hội. Đến năm 1922, công cuộc chấn
hưng Phật giáo Trung Quốc đã lên cao với sự lãnh đạo phong trào tích cực của Đại
sư Thái Hư (T'ai-Hsu, 1890-1947), người khai sáng Hội Phật giáo Trung Quốc
(Buddhist Society of China) có hơn 5 triệu thành viên trên khắp đất nước. Mở đầu
ông cho thành lập Phật học viện Pháp Tạng (Fa t'sang Buddhist School), ông nhấn
mạnh rằng chương trình dạy được kết hợp hài hòa giữa Phật học và khoa học để
thu hút giới thanh niên trí thức, kết quả là học viên theo học rất đông.
Không những Đại sư Thái Hư
chăm lo chấn hưng nền Phật giáo trong nước mà ngài còn có nhiều đóng góp để chấn
hưng Phật giáo thế giới. Chẳng hạn, năm 1924, ông tổ chức Hội nghị Phật giáo thế
giới (World Buddhist Conference) tại Lô Sơn, Trung Quốc. Năm 1925, ông tổ chức
Hội nghị Phật giáo Đông Á (East Asian Buddhist Conference) ở Tokyo, Nhật Bản.
Và từ năm 1928, ông bắt đầu các chuyến đi hoằng pháp ở các nước ở phương Tây.
Ngài đã trở thành một trong những nhà truyền giáo người châu Á đầu tiên đến diễn
thuyết tại Pháp, Đức, Anh và Mỹ, riêng tại Pháp, vào 1931, ông đã cho xây dựng
một Học viện Phật giáo tại Paris để hướng dẫn quần chúng Tây phương học Phật.
Nhìn chung với sự góp sức chấn
hưng của các Đại sư Thái Sư và sự ủng hộ của chính phủ Trung Quốc, Phật giáo
Trung Quốc đã nhanh chóng phục hưng về mọi phương diện từ kiết thiết trùng tu
cơ sở cho đến văn hóa nghệ thuật, in ấn kinh điển. Phong trào chấn hưng Phật
giáo tại Trung Quốc lúc ấy đã ảnh hưởng và lan tỏa đến các nước láng giềng như
Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam.
Vào đầu thế kỷ 20, Phật giáo
Trung Quốc phải chịu trải qua một thời kỳ cải cách để có thể thích hợp trào lưu
mới của xã hội, những tưởng vận mệnh Phật giáo Trung Quốc đã thoát khỏi tai ách
của thời cuộc, nhưng không bao lâu sau đó, Phật giáo Trung Quốc lại tiếp tục bị
tàn phá trầm trọng qua cuộc chiến Trung-Nhật (1940-1945), rồi tiếp đó là cuộc
Cách mạng văn hóa (1966-1976), Phật giáo Trung Quốc đã trở thành nạn nhân của
các cuộc đàn áp vô căn cứ của chính sách đổi mới lạ lùng này.
Từ năm 1976 đến nay, tuy
chính phủ Trung Quốc có nhiều chính sách cởi mở hơn để khôi phục lại Phật giáo,
nhưng nhìn chung Phật giáo Trung Quốc vẫn chưa lấy lại được sinh khí của mình
như thuở nào. Tất cả phải đợi chờ đến một cuộc đổi mới khác trong một tương lai
gần.
Hiện nay, Phật giáo tại
Trung Quốc gồm dòng là Phật giáo Bắc Tông, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Nam
Tông, tăng lữ xuất gia của ba hệ phái lớn này có 200 nghìn người. Hiện nay
Trung Quốc có hơn 13.000 chùa mở cửa, có 33 trường Phật giáo và gần 50 loại
sách báo, tạp chí Phật giáo xuất bản.
*Miến Điện
Truyền thuyết cho rằng Miến
Điện (Myanma) đã tiếp cận với đạo Phật trong thời A-dục vương (zh. 阿育王,
sa. aśoka, pi. asoka, thế kỉ thứ 3 trước CN). Theo một thuyết khác, đạo Phật đã
đến Miến Điện trong thời đức Phật còn tại thế, do hai thương nhân từ Ấn Độ mang
tới. Những vị này mang theo cả tóc Phật, ngày nay được giữ trong đền Shwe-Dagon
tại Rangun (Yangon).
Kể từ thế kỉ thứ 5, Phật
giáo phát triển rực rỡ với sự có mặt của Thượng tọa bộ và Đại thùa phái. Kể từ
thế kỉ thứ 7, hai phái Nguyên Thủy và Đại thừa song hành tại Miến Điện, sau đó
Mật tông cũng bắt đầu có ảnh hưởng. Thế kỷ 11, nhà vua A-na-ra-tha tuyên bố chỉ
chấp nhận Thượng tọa bộ và từ đó, Đại thừa biến mất tại đây. Tại Miến Điện,
Bagan ở miền bắc trở thành trung tâm Phật giáo. Phật giáo Miến Điện liên hệ chặt
chẽ với Phật giáo Tích Lan, nhất là với Đại Tự. Thế kỉ thứ 15, vua Đạt-ma-tất-đề
(pi. dhammaceti) lại xác định lần nữa rằng Phật giáo Miến Điện mang nặng quan
điểm của Thượng tọa bộ. Sự có mặt của người Anh trong thế kỉ thứ 19 làm xáo trộn
Phật giáo Miến Điện đáng kể. Mãi đến lúc giành lại độc lập năm 1947, Miến Điện
mới trở lại cơ chế cũ. Năm 1956 tại Rangun có một cuộc kết tập kinh điển quan
trọng. Ngày nay, 90% dân Miến Điện là Phật tử, đạo Phật được xem là quốc giáo.
*Sri Lanka
Người ta cho rằng Phật giáo
đến Tích Lan (Sri Lanka) khoảng năm 250 trước Công nguyên, do Ma-hi-đà và
Tăng-già-mật-đa (pi. saṅghamitta), hai người con của A-dục vương (sa. aśoka,
pi. asoka), truyền từ Ấn Độ. Nhà vua Tích Lan hồi đó là Thiên Ái Đế Tu (pi.
devānampiya tissa) trở thành Phật tử và thành lập Đại tự nổi tiếng, nơi đó ông
trồng một nhánh cây Bồ-đề có nguồn từ nơi Phật thành đạo, Bồ-đề đạo tràng. Đại
tự trở thành trung tâm của Thượng tọa bộ.
Theo thời gian, nhiều tông
phái Phật giáo khác thành hình và gây nhiều tranh cãi, đến nỗi có khi nhà vua
phải can thiệp. Đó là những tranh luận ban đầu của Tiểu thừa và mầm mống của Đại
thừa, của cả Mật tông thời bấy giờ. Cuối cùng, Thượng tọa bộ thắng, trong đó Phật
Âm - một Luận sư xuất sắc của Thượng tọa bộ - đóng vai trò quyết định. Tác phẩm
của Phật Âm ngày nay vẫn còn ảnh hưởng lên Phật giáo Tích Lan. Đến thế kỉ thứ
12, vua Ba-lạc-la Ma-bà-ha-y (pi. parakkambahu), họp hội nghị Phật giáo và ép tất
cả các trường phái phải theo giáo lý của Thượng tọa bộ tại Đại tự.
Qua thế kỉ thứ 16, người Bồ
Đào Nha vào Tích Lan và tìm cách du nhập đạo Thiên chúa. Đến thế kỉ thứ 17, người
Hà Lan lại ủng hộ việc khôi phục đạo Phật tại Tích Lan. Ngoài ra, Miến Điện và
Thái Lan cũng có ảnh hưởng đáng kể lên nền đạo Phật tại đây. Kể từ khi Tích Lan
giành lại độc lập năm 1948, đạo Phật luôn luôn đóng một vai trò quan trọng
trong việc tín ngưỡng và nền văn hóa của xứ này.
*Indonesia
Người ta cho rằng Phật giáo
du nhập đến Indonesia khoảng thế kỉ thứ 3 sau Công nguyên. Cao tăng Pháp Hiển,
vị tăng Trung Quốc đầu tiên đến Ấn Độ, cũng là người đến Nam Dương năm 418. Cuối
thế kỉ thứ 5 thì Phật giáo bắt đầu phát triển tại Indonesia, đến thế kỉ thứ 7
thì Sumatra và Java trở thành hai trung tâm Phật giáo quan trọng. Tại đây, giáo
lý Đại thừa được truyền bá rộng rãi, có một số tư tưởng Tiểu thừa, có lẽ của
Thuyết nhất thiết hữu bộ, được thừa nhận. Dưới thời vua Shai-len-dra, Phật giáo
phát triển rực rỡ, đó là thời kì xây dựng tháp tại Borobudur, là Phật tích lớn
nhất còn lưu tới ngày nay. Khoảng cuối thế kỉ thứ 8, Mật tông bắt đầu thịnh
hành. Đại thừa và Mật tông tồn tại mãi đến thế kỉ thứ 15, trong suốt thời gian
này, Phật giáo Nam Dương liên hệ nhiều với Ấn Độ và với viện Na-lan-đà (sa.
nālandā). Với sự xâm nhập của Hồi giáo, Phật giáo bắt đầu tàn lụi tại Nam
Dương, kể từ thế kỉ thứ 15. Ngày nay chỉ còn một số nhỏ tín đồ, nhất là trong
giới Hoa kiều.
*Campuchia
Người ta cho rằng Phật giáo
du nhập vào Campuchia trong thế kỉ thứ 3 sau CN, theo văn hệ Phạn ngữ, trường
phái Thuyết nhất thiết hữu bộ và đạt được đỉnh cao khoảng thế kỉ thứ 5, thứ 6.
Năm 791 người ta tìm thấy gần đền Đế Thiên Đế Thích (Angkor Wat) một văn bản chứng
tỏ rằng Đại thừa đã có mặt nơi đây song song với việc thờ thần Thấp-bà (sa.
śiva). Sự hỗn hợp này có lẽ bắt nguồn từ việc thờ cúng Bồ Tát Quán Thế Âm, mà
Thấp-bà được xem là một hóa thân. Mọi nhà vua của Campuchia cũng đều được xem
là hóa thân của Quan Thế Âm. Sau một thời gian thì yếu tố thần Thấp-bà hầu như
bị mất đi, nhưng đến thế kỉ thứ 13, người ta lại tôn thờ thần Thấp-bà và tăng
giả Phật giáo bị bức hại. Theo các Cao tăng Trung Quốc thì trong thời gian này,
Thượng tọa bộ được phát triển trong lúc Đại thừa bị lu mờ. Một số văn bản bằng
văn hệ Pali ghi năm 1309 chứng minh rằng Thượng tọa bộ được hoàng gia công nhận
và kể từ đó là giáo phái chính thống của Campuchia. Mãi đến cuối thế kỉ thứ 19,
Phật giáo truyền từ Thái Lan mới bắt đầu có ảnh hưởng.
*Thái Lan
Người ta biết rất ít việc đạo
Phật được truyền bá đến Thái Lan. Kết quả khảo cổ cho thấy Phật giáo đến Thái
Lan khoảng thế kỉ thứ 6 từ Miến Điện. Ban đầu giáo lý Therevada tức Phật giáo
nguyên thủy Nam tông có ảnh hưởng rộng rãi. Khoảng giữa thế kỉ thứ 8 và 13,
Mahayana (hay phái Bắc Tông) được truyền bá rộng hơn. Giữa thế kỉ thứ 11 và 14,
ảnh hưởng của Ấn Độ giáo bắt đầu phát triển. Trong thế kỉ 13, Hoàng gia Thái
Lan chính thức công nhận Thượng tọa bộ (giáo lý của Phật giáo nguyên thủy
Therevada)và mối liên hệ với Tích Lan trong thời kì này càng làm cho bộ này
phát triển thêm rộng rãi. Năm 1782, nhà vua triệu tập một đại hội nhằm kiểm điểm
lại Tam tạng kinh điển. Trong thế kỉ thứ 19, nhà vua Ma-ha Mông-cút (mongkut)
lên ngôi, bản thân ông cũng đã là một tăng sĩ, ông là người đặt nền tảng cho nền
Phật giáo cận đại. Ông thành lập Pháp tông (dhammayut), cơ sở dựa vào Luật tạng
và ngày nay có nhiều tín đồ nhất tại Thái Lan. Vua Chulalangkorn - trị vì từ
1868 đến 1910 - cho xuất bản các tạng kinh quan trọng của đạo Phật, có thể gọi
là đầy đủ nhất từ xưa đến nay. Ngày nay, 95% dân số Thái Lan theo đạo Phật.
*Triều Tiên
Trong thế kỉ thứ 4 sau CN,
Phật giáo du nhập vào Triều Tiên và phát triển rực rỡ nhất là giữa thế kỉ thứ 6
và thứ 9. Trong thời kì này, các trường phái quan trọng của Trung Quốc đều được
thành lập tại Triều Tiên như Thiền tông, Hoa Nghiêm tông, Mật tông (Chân ngôn
tông). Bộ kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng được truyền bá rộng rãi rất sớm tại
Triều Tiên. Người ta cũng tìm thấy nhiều tác phẩm văn hóa mang đặc tính Phật
giáo tại đây. Suốt thời nhà Lý (yi, 1392-1910), nền văn hóa Khổng giáo trở
thành quốc đạo và tăng ni Phật giáo bị ép buộc phải vào núi tu hành. Sau năm
1945, Phật giáo được phục hưng và phát sinh một phong trào mới gọi là Viên Phật
giáo (en. won-buddhism). Ngày nay, tại Hàn Quốc người ta ít phân biệt các tông
phái đạo Phật và thực hành song song với nhau thiền quán, niệm Phật A-di-đà và
tụng kinh. Phép niệm thần chú cũng được truyền bá rộng rãi, vốn có nguồn gốc từ
Mật tông của thời trung cổ. Trong giới trí thức, Thiền tông được nhiều người
theo trong lúc giới dân giã lấy niệm danh hiệu các đức Phật làm chủ yếu. Trộn lẫn
với đạo Phật là hình thức thờ đa thần như thần núi, linh vật, thần tinh tú.
*Mông Cổ
Theo nhà nghiên cứu sử học
người Anh Andrew Skilton[1], Phật giáo được truyền vào Mông Cổ từ Ấn Ðộ, Trung
Á và Trung Hoa vào đầu thế kỷ 4 TCN bằng con đường tơ lụa (Silk Road) qua các
nhà buôn người Ấn Độ. Từ đó Phật giáo dần dà phát triển đến thế kỷ 13 với nhiều
đợt truyền giáo của Phật giáo Tây Tạng và Phật giáo Trung Quốc. Tuy nhiên, Phật
giáo Tây Tạng chiếm ưu thế và ảnh hưởng mạnh mẽ vào đời sống của người dân Mông
Cổ. Ðỉnh cao của sự ảnh hưởng này là Đạt-lại Lạt-ma thứ 4 là người Mông Cổ
(1588). Trước khi Phật giáo được truyền vào Mông Cổ, tôn giáo bản địa là Shaman
giáo, một tôn giáo chịu ảnh hưởng từ truyền thống tâm linh của người Ba Tư.
Phật giáo Mông Cổ bắt đầu
hưng thịnh từ thế kỷ 13 đến cuối thế kỷ 19 khi tôn giáo này trở thành quốc giáo
của Mông Cổ. Đến đầu thế kỷ 20, Mông Cổ chịu nhiều đau khổ vì chiến tranh, xung
đột chính trị từ các cường quốc bên ngoài, sau Trung Quốc (1912), Nhật Bản đánh
chiếm vào Manchuria vào năm 1931, và sau thế chiến thứ 2 vào năm 1945, Hồng
quân Liên Xô bắt đầu cuộc giải phóng cho Mông Cổ. Và từ đó trở đi Mông Cổ trở
thành quốc gia xã hội chủ nghĩa, với chính sách không khoan nhượng tôn giáo, có
hàng chục ngàn tăng ni và cư sĩ Phật giáo Mông Cổ trí thức bị trục xuất hoặc bị
tống giam, thanh thiếu niên dưới 18 tuổi không được xuất gia, hơn 800 tự viện bị
phá hủy hoàn toàn trên khắp Mông Cổ.[2]
Từ năm 1989 đến nay, khi
Mông Cổ trở thành nước đa đảng thì các rào cản về sinh hoạt tín ngưỡng được
tháo bỏ, các hoạt động của Phật giáo đã từng bước trở lại bình thường, có hơn
160 ngôi Tu viện Phật giáo được xây dựng hoặc mở cửa trở lại và rất nhiều người
xuất gia tu học và làm công tác truyền giáo. Hiện nay, 50% dân số Mông Cổ theo
Phật giáo Tây Tạng.
*Lào
Hầu hết nhân dân Lào theo đạo
Phật. Phật giáo trở thành quốc giáo của họ. Ở Lào, Phật giáo giữ vị trí quốc
giáo từ nhiều thế kỷ nay. Phật giáo có ảnh hưởng đến việc hình thành tính cách
dân tộc, nhân sinh của người Lào.
Theo nhiều nguồn sử liệu còn
để lại cho thấy, vào khoảng thế kỷ 12, những người Môn đầu tiên di cư xuống
vùng Tây Lào đã truyền bá Phật giáo cho những cư dân tại đây. Những người Môn
này đã mang theo rất nhiều kinh Phật, tượng Phật và những tu sĩ am hiểu Phật
giáo từ Sri Lanka đến truyền bá Phật pháp. Từ đó họ truyền đi các ngả và phát
triển rộng khắp đến các vùng phía Tây của Lào.
Đến thế kỷ 13 khi tộc người
Lào Thay chinh phục xong toàn bộ phần đất Bắc Lào rộng lớn họ đã tiếp thu Phật
giáo hệ phái Thượng tọa Bộ hay Therevada - Phật giáo Nam tông và phát triển rộng
khắp cả vùng Bắc và Trung Lào. Thời gian này, Phật giáo Lào có quan hệ mật thiết
với Phật giáo Srilanka. Trong khi đó, từ phía Nam, Phật giáo Lào cũng chịu ảnh
hưởng của Phật giáo Khmer vốn theo Thượng tọa Bộ - Therevada. Dưới thời của đế
chế Angkor, thống trị từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ 13, Phật giáo Đại thừa đã được
truyền bá vào Lào. Thế kỷ 14 khi vua Phà Ngừm (1316 - 1373) thống nhất toàn bộ
lãnh thổ nước Lào, ông đã tiếp thu Phật giáo Thượng tọa Bộ từ Campuchia và phát
triển trên khắp đất nước Lào.[4]
Hiện nay, Phật giáo tại Lào
tồn tại song song hai hệ phái là Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Thượng tọa Bộ,
trong đó hệ phái Phật giáo Thượng tọa Bộ - Therevada chiếm đa số. Theo con số
thống kê, hiện nay ở Lào có hơn 20.000 tăng ni, khoảng 6.300 cơ sở thờ tự, chiếm
khoảng 85% dân số nước này. Phật giáo Thượng tọa Bộ ở Lào phân chia thành 2
phái nhỏ là Đại tông phái truyền thống chiếm 94% số chùa, 90% số sư sãi. Tông
phái này từ Thái Lan truyền sang vào thế kỷ 14. Và Pháp tông phái vốn do nhà
vua Mongkut (Rama IV) của Vương triều Chakri (Thái Lan) lập ra khi nhà vua chưa
lên ngôi. Phái này chủ trương cải cách Phật giáo, chủ trương bảo vệ giới luật
nghiêm túc, do các cao tăng điều hành. Sư tăng của phái nầy tuy hạn chế, nhưng
phần lớn là các quý tộc xuất gia, nhiều nhà trí thức, trước kia được Hoàng gia
Lào ủng hộ.
*Nhật Bản
Đạo Phật bắt đầu từ Ấn Độ từ
thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên. Một nhánh chính của Phật giáo, nhánh Mahayana
hay gọi là Phật giáo Bắc tông đã du nhập vào Nhật Bản. Phật giáo được du nhập
vào Nhật từ Trung Hoa và Triều Tiên dưới dạng món quà của vương quốc thân hữu
Triều Tiên Kudara vào thế kỷ thứ 6 sau Công Nguyên. Trong khi Phật giáo được giới
quý tộc cai trị ủng hộ, lúc đầu nó lại không phổ biến trong giới thường dân vì
những lý thuyết phức tạp của nó. Đến thời Nara, Phật giáo mới phát triển mạnh mẽ
trong dân chúng và toàn nước Nhật.[5]
Trong nhiều thế kỷ, Phật
giáo là quốc giáo của nước này. Ảnh hưởng lớn đến chính trị, xã hội, văn hóa của
quốc gia này. Từ khi Phật giáo truyền đến nước Nhật, sự hợp nhất giữa Phật giáo
và Thần đạo đã diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Phật giáo bắt đầu thời kỳ
suy vi tại Nhật vào thế kỉ 19, vào thời Minh Trị, chính quyền lúc bấy giờ đã ra
sắc lệnh "Thần Phật phân ly", tách Thần Đạo ra khỏi Phật giáo, đồng
thời nỗ lực chấn hưng tôn giáo bản địa. Đây là thời kì Thần Đạo phát triển mạnh
mẽ với sự bảo trợ đặc biệt của chính quyền. Thần Đạo trở thành quốc giáo của Nhật
Bản, gắn liền với các hoạt động của nhà nước. Phật giáo được khôi phục lại sau
khi kết thức Chiến tranh thế giới thứ hai với việc nhiều tổ chức Phật giáo ra đời
làm sống dậy các sinh hoạt Phật sự trên khắp nước Nhật.
Theo thống kê gần đây, Phật
giáo Nhật Bản có 70.000 ngôi chùa, 250.000 tăng ni, 96 triệu Phật tử. Có trên
20 trường đại học, trung học và viện nghiên cứu Phật giáo ở khắp đất nước Nhật.
Phật giáo Nhật Bản có rất nhiều tông phái khác nhau, được chia thành mười ba
tông phái chính.
*Bình đẳng:
Trong các tôn giáo độc thần
luôn có một đấng tối thượng. Đạo Phật thì chỉ coi một trình độ nhận thức được gọi
là giác ngộ là tối thượng chứ không tồn tại một đấng tối thượng. Bậc Vô thượng
bồ đề hay gọi đơn giản là Phật chính là một bậc mà mọi chúng sanh đều có thể đạt
được nếu kiên trì tu tập, tích lũy thiện nghiệp qua rất nhiều kiếp sống để cuối
cùng đạt tới giác ngộ.
Phật là danh từ chung để gọi
một người đã giác ngộ, đạt tới cảnh giới giải thoát, ra khỏi luân hồi, hoàn
toàn trong sạch và hơn nữa phải là người có lòng từ bi thương yêu, cứu giúp tất
cả chúng sinh không phân biệt dù hy sinh cả bản thân mình. Sự suy tôn trong đạo
Phật là do tự cảm phục trước lòng từ bi, đức độ và công hạnh của người đã đạt đến
bậc Vô thượng bồ đề, là sự tôn trọng dành cho một nhà hiền triết, là sự tự nguyện
noi theo đức độ và giải thoát chứ không hề có sự ép buộc phải phục tùng, cầu lợi.
Chính Phật cũng đã khẳng định: "Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ
thành".
Các tôn giáo khác thường có
giáo hội và người đứng đầu, lãnh đạo toàn bộ tín đồ (ví dụ như Giáo hoàng của đạo
Công giáo, Khalip của Đạo Hồi). Đạo Phật có giáo hội nhưng không đặt ra người đứng
đầu, các tín đồ đều bình đẳng. Trong đạo Phật, người có thời gian, cấp độ tu
hành cao sẽ được các tín đồ khác trọng vọng, nhưng họ không có quyền chỉ đạo
các tín đồ khác. Trước khi nhập diệt, Phật Thích Ca đã để lại di ngôn là tăng
đoàn sẽ không có người đứng đầu (để tránh tăng đoàn bị sa vào tranh chấp quyền
lực, tài sản), các bài kinh và lời dạy của Phật là điều duy nhất tín đồ phải
tuân theo: "Này A-Nan, thầy cho rằng các Tỳ-kheo không có nơi nương tựa,
không có ai che chở sau khi Ta nhập diệt ư? Đừng nghĩ như vậy, những Kinh, Luật
mà Ta đã giảng dạy từ khi thành Phật đến nay sẽ là chỗ nương tựa che chở cho
các thầy đó... Này các đồ đệ, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con,
hãy trông cậy vào chính sức mạnh của các con; hãy tinh tấn tu hành"
Quan niệm về thế giới:
Đạo Phật cho rằng mọi sự vật,
hiện tượng (trừ cõi Niết Bàn) đều là vô thường, không thể tồn tại vĩnh hằng, có
sinh thì phải có diệt. Duyên khởi thì sinh, duyên tận thì diệt. Ngay cả không
gian, thời gian, các hành tinh và cả vũ trụ cũng vậy, cũng có khởi đầu, biến đổi
và cuối cùng là kết thúc. Trong Kinh Khởi thế nhân bổn, Phật thuyết giảng rằng
đã có vô số các thế giới giống như Trái Đất từng được hình thành, phát triển rồi
bị hủy diệt trong quá khứ, và tương lai cũng sẽ có vô số các thế giới sinh ra rồi
hủy diệt như vậy. Trong khi đó, các tôn giáo độc thần cho rằng đấng tối cao của
họ là vĩnh hằng, bất biến và sáng tạo ra vạn vật, cho rằng đấng tối cao đó
không sinh ra từ đâu mà đã có khi vạn vật chưa tồn tại.
Đạo Phật thì cho rằng Trái Đất
chỉ là một trong muôn vàn các thế giới cùng tồn tại, mỗi thế giới lại có những
đặc điểm khác nhau, Trái Đất chỉ giống như một hạt cát trong vũ trụ. Phật giáo
có khái niệm Tiểu thiên thế giới (1 ngàn hành tinh), Trung thiên thế giới (1
triệu hành tinh), đại thiên thế giới (1 tỷ hành tinh), Tam thiên đại thiên thế
giới (3 nghìn tỷ hành tinh). Đức Phật nói vũ trụ này lại có vô số Tam thiên đại
thiên thế giới, tức là số lượng các thế giới khác nhau gần như là vô hạn. Phật
Thích Ca từng nói: "Trên vũ trụ này còn vô số những thế giới khác, trong một
ly nước cũng có vô số những con trùng trong đó". Quan điểm này hiện nay đã
được khoa học hiện đại chứng minh là đúng (theo thuật ngữ của khoa học hiện đại
thì "Tam thiên đại thiên thế giới" chính là tương ứng với một thiên
hà, còn những con trùng trong bát nước chính là vi khuẩn).
Quan niệm về loài người và
thần linh:
Các tôn giáo khác coi loài
người là sinh vật tối thượng. Còn trong Đạo Phật, loài người (Nhân giới) cũng
chỉ là một kiếp sống như các loài vật khác (ngạ quỷ giới, súc sinh giới), có kiếp
sống còn cao cấp hơn loài người (các vị thần trên Thiên giới). Các kiếp sống có
sức mạnh khác nhau, loài người không phải là tối thượng (loài người kém hơn các
vị thần trên Thiên giới). Song dù là người, thần hay súc sinh thì cũng đều là
sinh vật, phải chịu quy luật Nhân quả (làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác),
không sinh vật nào là vĩnh cửu mà đều phải có lúc chết, lúc chết thì sẽ luân hồi
sang kiếp sống khác, kiếp sau như thế nào thì phải tùy vào việc làm nhiều thiện
nghiệp hay ác nghiệp (ví dụ: một người mà nhiều điều thiện thì kiếp sau có thể
lên thiên giới, nhưng kiếp sau mà làm điều ác thì kiếp sau nữa lại trở thành
súc sinh).
Trong phần lớn các tôn giáo
khác, các vị thần thánh được coi là có quyền lực siêu nhiên, loài người không
thể nào đạt tới cấp độ năng lực của họ. Đức Phật cũng nói về thần thánh, nhưng
ngài nói rằng các vị thần cũng chỉ là một dạng sinh vật trong các thế giới. Kiếp
trước của các vị thần cũng chỉ là người hoặc loài vật, nhưng vì họ tạo ra nhiều
thiện nghiệp nên kiếp này họ được phước báo, được đầu thai làm thần linh. Họ có
quyền năng siêu phàm nhưng không phải là toàn năng (họ không thoát khỏi được luật
Nhân - Quả, không thoát khỏi được sinh tử luân hồi), họ cũng không phải là bất
tử (dù tuổi thọ của họ rất dài lâu, có khi lâu hơn cả một chu kỳ thế giới,
nhưng rồi cũng phải đến lúc họ chết đi). Đức Phật giảng như sau: một người nếu
hành thiện tích đức, tu luyện thiền căn đủ mức thì kiếp sau họ sẽ được luân hồi
vào các cõi Trời, trở thành một vị thần, nhưng khi phước báo hết thì thọ mạng của
vị thần đó cũng hết, họ sẽ chết và lại phải tiếp tục đầu thai vào kiếp sau (Phật
nói rằng trong một số tiền kiếp, ngài từng là Thiên chủ Đế Thích, vua cõi trời
Đao Lợi, từng trị vì rất lâu nhưng rồi cũng phải chết đi). Đối chiếu theo quan
điểm hiện đại, có thể coi các vị thần mà Đức Phật nói tới chính là những nền
văn minh ngoài Trái Đất có trình độ cao hơn hẳn so với loài người.
*Tôn thờ:
Đạo Phật không ép buộc hay
khuyến khích thờ cúng bất kỳ ai. Nên phân biệt rõ sự ép buộc thờ cúng để hưởng
thụ với sự thành tâm cúng dàng, hỷ xả của một tín đồ. Một vị Phật hay một vị
tăng chân chính không coi trọng bản thân mình, sẵn sàng hy sinh vì chúng sinh khiến
chúng sinh cảm động. Việc chúng sinh dâng cúng là vì họ muốn tạo công đức, gieo
một nhân lành, gieo một duyên tốt để từ đó diệt trừ tham lam, đi vào tu tập, xả
bỏ vướng bận và giải thoát.
Sự cúng dàng và bái lạy, hầu
cận Phật là một sự ngưỡng mộ, noi theo đối với đấng Thế tôn đã giải thoát và từ
bi vô lượng. Khi một người đạt đến quả vị Vô thượng bồ đề thì cả vũ trụ đều
rúng động và suy tôn vì đức độ vĩ đại của vị Phật đó chứ vị Phật đó không còn
mong muốn ai suy tôn, thờ cúng cho mình. Quả vị đó là một sự thật chứ không phải
tự phong. Phật đã đạt tới và Phật nhận tất cả tấm lòng của chúng sinh hướng về
chính đạo để hướng dẫn cách giải thoát cho chúng sinh. Hơn hết tất cả, quả vị
Vô thượng bồ đề là bậc mà mọi chúng sinh đều có thể tự tu tập và đạt được theo
sự chỉ bảo của Phật.
Tóm lại, Đạo Phật giống như
con đường giải thoát dành cho tất cả chúng sinh, không phân biệt ai. Đạo Phật
nói lên một con đường khách quan để đi tới chân lý. Giáo lý của Đạo Phật không
phải do Phật sáng tạo ra mà là chân lý khách quan theo giác ngô của Phật. Phật
chỉ là người phát hiện, dấn thân và chứng đắc để rồi truyền dạy lại cho chúng
sinh cách giải thoát với lòng từ bi vô lượng. Phật xem tất cả chúng sinh là
bình đẳng và hoàn toàn có thể thành Phật.
*Nhà bác học Vật lý Albert
Einstein có nhắc qua về Đạo Phật trên tờ New York Times số ra 09.11 năm 1930
như sau:
“ ...một người được giác ngộ bởi tôn giáo, đối với tôi có vẻ
như là người cố gắng đến khả năng cực đại của bản thân, giải thoát mình khỏi những
xiềng xích của những ham muốn ích kỷ của mình và đi sâu, chìm đắm trong những
suy nghĩ, cảm xúc và nguyện vọng, những cái mà người đó luôn giữ chặt, vì giá
trị của siêu-cái tôi cá nhân (gọi tắt là X). Tôi thấy rằng, dường như cái quan
trọng là sức mạnh của những thứ (nội dung) nằm trong X... chứ không cần quan
tâm đến bất kỳ một nỗ lực nào được thực hiện để thống nhất những điều này với một
đấng Thiên chúa, nếu không thì nó có thể không khả thi khi tính Phật và Spinoza
là như loại hình tôn giáo (nhân cách). Theo đó, người mộ đạo theo cảm giác (có
ý thức) rằng, họ không hề nghi ngờ gì về tầm quan trọng của các đối tượng nằm
trong X này và về các mục tiêu, cái mà không cần và cũng không có đủ khả năng
xây dựng nên dựa trên một nền tảng khoa học hợp lý... Theo cách hiểu này, tôn
giáo là nỗ lực lâu đời của nhân loại để trở nên rõ ràng và được nhận thức hoàn
toàn đầy đủ về những giá trị và mục tiêu, và không ngừng củng cố cũng như mở rộng
ảnh hưởng của nó. Nếu mọi người quan niệm về tôn giáo và khoa học theo những định
nghĩa này, thì một cuộc xung đột giữa tôn giáo và khoa học dường như là không
thể. Vì đối với khoa học chỉ có thể xác định nó "là gì", chứ không phải
nó "nên là gì"... ”
Friedrich Nietzsche chỉ
trích Đạo Phật làm thúc đẩy những thứ mà ông gọi là thuyết hư vô. Ông cho rằng,
đạo Phật có thể được mô tả như một nỗ lực, thông qua sự kiềm chế từ hành động,
để thoát khỏi đau khổ và đi vào trạng thái không tồn tại một cách tuyệt đối,
cái mà ông phê phán và cho rằng đó là sự trốn chạy hèn nhát trước thực tại.
Nhà bác học Vật lý Albert
Einstein đã nghiên cứu Đạo Phật qua các sách báo của các học giả Phật học của
người Âu Mỹ viết, đáng kể là triết gia người Đức Schopenhauer Arthur
(1788-1860), tiến sĩ người Đức Paul Carus (1852-1919), viện sĩ hàn lâm người
Nga Vasily Vasaliyey (1818-1900)... Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau:
“ Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên
trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương
diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ
kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa.
Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó... Nếu có một tôn giáo nào đương đầu
với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần
xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học.
Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình theo xu hướng khoa học, vì Phật
giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học... Tôi là một người không
tôn giáo. Nhưng nếu có Tôn giáo thì Tôi phải là một Phật tử. Vì những gì Tôi hiểu
biết bây giờ thì mấy ngàn năm qua Kinh Phật đã nói hết rồi. ”
*Ảnh hưởng tới văn hóa Việt
Nam
Những danh từ chuyên môn của
Phật giáo đã biến thành văn hóa người Việt qua ngôn ngữ của người bình dân Việt
Nam thường sử dụng, đã được truyền bá rộng rãi trong dân gian và trở nên phổ biến
trong văn hóa người Việt.
Trong truyện cổ tích Việt
Nam thường thấy nhân vật "Bụt" xuất hiện để cứu giúp người lương thiện,
trừng trị kẻ ác. "Bụt" chính là phiên âm của từ Budha trong tiếng Phạn,
chính là chỉ Đức Phật.
Người Việt có lễ xá tội vong
nhân, Vu Lan báo hiếu xuất phát từ một điển tích trong Phật giáo, đó là việc
tôn giả Mục Kiền Liên (1 trong 2 đại đệ tử của Phật Thích Ca) đã báo hiếu bằng
việc khẩn cầu công đức của chư Tăng các phương để cứu mẹ ra khỏi kiếp ngạ quỷ.
Con người mỗi khi thấy những
ai bất hạnh, bị hoạn nạn đau khổ thì liền tỏ lòng thương xót và thốt lên câu: Tội
nghiệp quá!... Hai chữ tội nghiệp là danh từ chuyên môn của Phật giáo với ý
nghĩa chỉ cho nghiệp báo tội ác đã định. Cụm từ "tội nghiệp quá!" là
câu nói của người bình dân hàm súc hai ý nghĩa: Một là phán định tội lỗi, và
hai là tâm linh chia sẻ. Phán định tội lỗi, nghĩa là người này đã gây nghiệp tội
ác quá nặng trong quá khứ cho nên giờ đây phải chịu quả báo khổ đau không thể
trốn tránh. Tâm tình chia sẻ, nghĩa là thấy họ hoạn nạn đau khổ thì bộc lộ tâm
tình thương hại để san sớt phần nào niềm đau nỗi khổ của họ.
Người bình dân muốn diễn tả
số lượng người ta quá đông đảo hoặc số lượng vật gì quá nhiều thì liền dùng câu
"Hằng hà sa số" để tỏ bày. Hằng hà sa số là danh từ chuyên môn của Phật
giáo với ý nghĩa là số nhiều như cát sông Hằng. Sông Hằng (sông Gange) là chỉ
cho một trong hai con sông lớn nhất của Ấn Độ. Ấn Độ có hai con sông nổi tiếng
thế giới là sông Ấn (Indus) và sông Hằng (Gange) và hai con sông này khai nguồn
tài nguyên sức sống cho toàn thể dân tộc Ấn Độ phát triển và tồn tại. Trong các
kinh luận, Phật giáo cũng thường dùng những ngôn từ “Hằng hà sa số” nhằm để nói
lên số lượng quá nhiều không thể đếm được
Khi thấy một số người đi
lang thang khắp nơi, sống rày đây mai đó, không chịu dừng chân một chỗ nào lâu
dài, người bình dân thường gắn cho họ một ngôn từ đơn giản là kẻ sống Ta bà thế
giới. Ta bà thế giới là ngôn từ chuyên môn của Phật giáo nhằm chỉ cho thế giới
mà loài người đang sống, bao gồm cả sáu cõi luân hồi chúng sanh sống chung lẫn
lộn với nhau, gồm cõi địa Ngục, cõi Ngạ Quỷ, cõi Súc Sanh, cõi loài người, các
cõi Trời. 6 cõi nói trên có một danh từ gọi chung là "cõi Dục Giới",
bởi chúng sinh ở 6 cõi này bị chi phối mạnh mẽ bởi các Dục (các ham muốn của bản
thân). Tuổi thọ của chúng sinh ở cõi Dục giới đa phần là ngắn ngủi, mỗi kiếp sống
thường chỉ là tạm bợ rồi lại phải chết và luân hồi sang kiếp sống khác, hạnh
phúc thì ít mà khổ đau thì nhiều. Ngôn từ "Ta Bà Thế giới" của Phật
giáo đã được người Việt Nam tiếp nhận trở thành văn hóa người Việt, dùng để chỉ
đời sống tạm bợ, khốn khó của một con người./..