Nhiều người cho rằng bộ não
con người được cấu trúc để giải quyết các vấn đề thực tế ảnh hưởng đến sự tồn tại
và sinh sản, chứ không phải để làm sáng tỏ những bí ẩn của vũ trụ.
Khoa học đã đạt được những
tiến bộ to lớn trong thế kỷ qua, nhưng sự hiểu biết của loài người về tự nhiên
vẫn vô cùng hạn chế. Các nhà khoa học chưa thể kết hợp được thuyết tương đối rộng
với vật lý lượng tử, thậm chí không xác định được vật chất tối và năng lượng tối
- thành phần chủ chốt tạo nên vũ trụ - là gì.
Thuyết vạn vật (Theory of
Everything) vẫn còn là thứ quá xa vời với các nhà khoa học. Và còn rất nhiều
câu hỏi hóc búa khác, bao gồm việc ý thức nảy sinh từ vật chất đơn thuần như thế
nào.
Nhiều người cho rằng bộ não
con người là sản phẩm của sự tiến hóa theo thời gian. Nó được thiết kế để giải
quyết các vấn đề thực tế ảnh hưởng đến sự tồn tại và sinh sản của chúng ta, chứ
không phải để sáng tỏ cấu trúc vũ trụ.
Những
vấn đề của người tinh khôn
Do đó, nhiều triết gia bi
quan cho rằng có những điều chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được, khoa học của
con người ngày nào đó sẽ đạt đến giới hạn cuối cùng. Và có thể chúng ta đã đạt
đến giới hạn đó rồi. Tuy nhiên, liệu đây có phải là quan niệm đúng?
Theo nhà nghiên cứu Maarten
Boudry thuộc Đại học Ghent (Bỉ), nếu cho rằng chỉ con người mới có sức mạnh nhận
thức, điều khiến chúng ta khác biệt với các loài động vật khác, bạn sẽ không hiểu
hết được thuyết tiến hóa của Darwin vốn nhận định Homo Sapiens - người tinh
khôn cũng chỉ là một phần của giới tự nhiên.
Có rất nhiều điều chúng ta
không thể làm được với bộ não trần trụi của mình. Nhưng Homo Sapiens là loài chế
tạo công cụ, bao gồm một loạt các "công cụ nhận thức". Nhờ đó con người
có thể mở rộng được sự hiểu biết của mình.
Ví dụ, các cơ quan cảm giác
của chúng ta không thể phát hiện tia UV, sóng siêu âm, tia X hoặc sóng hấp dẫn.
Nhưng nếu được trang bị một số công nghệ tương thích, bạn có thể nhận ra tất cả
những thứ đó.
Để khắc phục hạn chế về nhận
thức, các nhà khoa học đã phát triển bộ công cụ và kỹ thuật như: kính hiển vi,
phim X quang, máy đếm Geiger, máy dò vệ tinh vô tuyến,...
Tất cả các thiết bị này mở rộng
tầm hiểu biết của chúng ta bằng cách "chuyển đổi" những quy tắc vật
lý thành một số định dạng mà cơ quan cảm giác con người có thể nhận biết được.
Thực tế, có phải chúng ta đã cảm nhận được tia UV? Theo cách nào đó, có thể nói
là như vậy.
Bằng cách tương tự, chúng ta
sử dụng các vật thể vật lý (như giấy và bút chì) để tăng "dung lượng"
bộ nhớ cho bộ não trần trụi. Theo nhà triết học người Anh Andy Clark, tâm trí
chúng ta hoàn toàn vượt ra khỏi da và hộp sọ, nó xuất hiện dưới dạng máy tính xách
tay, màn hình máy tính, bản đồ hoặc những tập tin lưu trữ,...
Vai
trò của toán học
Toán học là một cách tuyệt vời
khác để mở rộng nhận thức. Nó cho phép con người thể hiện các khái niệm mà
chúng ta không thể nghĩ ra bằng bộ não trần.
Chẳng hạn, không nhà khoa học
nào có thể vẽ ra được biểu đồ đại diện cho tất cả các quá trình đan xen phức tạp
của hệ thống khí hậu. Đó là lý do con người đã xây dựng các mô hình toán học và
máy tính để thực hiện công việc nặng nhọc thay cho chúng ta.
Quan trọng nhất, chúng ta có
thể mở rộng nhận thức và truyền đạt cho những đồng loại. Điều làm cho loài người
trở nên độc đáo là chúng ta có văn hóa, đặc biệt là kiến thức văn hóa tích lũy
theo thời gian. Một quần thể bộ não của con người thông minh hơn nhiều so với bất
kỳ bộ não riêng lẻ nào.
Không nhà khoa học nào có thể
tự làm sáng tỏ những bí ẩn của vũ trụ. Nhưng tập thể sẽ làm được. Như Isaac
Newton đã viết, ông ấy có thể nhìn xa hơn khi đứng trên vai người khổng lồ. Bằng
cách hợp tác với các đồng nghiệp, các nhà khoa học có thể mở rộng tầm hiểu biết
nhanh hơn bất kỳ hoạt động cá nhân riêng lẻ.
Ngày nay, ngày càng ít người
hiểu những gì đang diễn ra ở đỉnh cao của vật lý lý thuyết - ngay cả các nhà vật
lý. Sự thống nhất cơ học lượng tử và lý thuyết tương đối chắc chắn gây nhiều
khó khăn, nếu không các nhà khoa học đã hoàn thành nó từ lâu.
Điều tương tự cũng đúng đối
với sự hiểu biết con người về cách bộ não phát triển ý thức, ý nghĩa và ý hướng
- intentionality, một trong những khái niệm quan trọng bậc nhất của hiện tượng
học (nhánh triết học nghiên cứu cấu trúc của sự cảm quan và ý thức).
Nhưng có lý do chính đáng
nào để cho rằng những vấn đề này sẽ mãi mãi nằm ngoài tầm với?
Phát
triển hay dừng lại?
Nhà nghiên cứu Maarten
Boudry đặt ra một giả thuyết thú vị. Có một nhà nhân chủng học ngoài hành tinh
đến thăm Trái Đất khoảng 40.000 năm trước để chuẩn bị báo cáo khoa học về tiềm
năng nhận thức của con người.
Liệu loài vượn-người có hiểu
được cấu trúc của Hệ Mặt Trời, độ cong của không-thời gian hay thậm chí là nguồn
gốc tiến hóa của chính nhân loại.
Khi ấy, khi tổ tiên chúng ta
sống trong từng nhóm nhỏ bằng phương pháp săn bắt hái lượm. Dù sở hữu kiến thức
khá sâu rộng về động thực vật ở môi trường xung quanh cũng như kiến thức để tồn
tại, tổ tiên chúng ta không có khái niệm gì về khoa học.
Họ không có chữ viết, không
biết toán học, không sở hữu thiết bị nhân tạo để mở rộng nâng tầm cơ quan cảm
giác như các thiết bị nhận biết tia UV, cảm biến nhiệt...
Kết quả là nhà nhân chủng học
ngoài hành tinh đánh giá: “Loài người không biết gì về nguyên nhân thực sự của
thảm họa thiên nhiên, bệnh tật, thiên thể, sự thay đổi các mùa hoặc bất kỳ hiện
tượng tự nhiên nào khác. Tiềm năng nhận thức của loài này rất thấp”.
Nhưng người ngoài hành tinh
đó hoàn toàn sai lầm. Về mặt sinh học, loài người không khác mấy so với 40.000
năm trước, nhưng giờ ta đã biết về vi khuẩn và virus, DNA và các phân tử, siêu
tân tinh và lỗ đen, phổ điện từ,...
Chúng ta cũng biết về độ
cong không-thời gian, thuyết tương đối rộng Einstein. Chúng ta đã có thể
"nhìn" đến các vật thể cách xa hàng triệu năm ánh sáng, cả những vật
thể cực kỳ nhỏ bé (vi khuẩn, virus, hạt hạ nguyên tử,...), những thứ ngoài tầm
với của các cơ quan cảm giác con người.
Câu chuyện giả sử ở trên là
động lực cho sự phát triển của nhân loại. Ai biết được những thiết bị nào sắp tới
có thể khắc phục những hạn chế sinh học của chúng ta? Ai dám khẳng định một bài
toán sẽ mãi mãi không bao giờ tìm được lời giải?
(Nguồn: Zing)