Thứ Năm, 23 tháng 10, 2014

Mình thích bài này

Mỗi khi nhớ Mẹ, tôi luôn nhớ tới đôi bàn tay Mẹ với những cuộn len, sợi cũ. Những năm giữa thế kỷ trước, đời sống còn khó khăn, chỉ những gia đình khá giả mới có áo đan bằng sợi, nhất là bằng len vào những ngày đông tháng giá. Áo cũ, mặc nhiều năm không còn được dầy dặn để giữ ấm, rồi áo của đứa lớn mặc đã chật, Mẹ tháo ra quấn thành những cuộn to, cuộn nhỏ như những quả bóng đủ loại, đủ màu để tất cả trong một cái túi vải to, chờ khi có thời gian đan thành những tấm áo mới. Những chiếc áo đan bằng len, sợi cũ tuy không có cái óng ả của sự tinh khôi nhưng cũng có cái đẹp riêng. Nhờ bàn tay khéo léo và con mắt tinh tế, Mẹ phối hợp những màu sắc khác nhau cùng những kiểu dáng hoa văn đa dạng tạo thành những chiếc áo mới vừa ấm áp vừa đẹp đẽ. Nào “đan trơn”, “quả trám”, “quấn thừng”, rồi “hạt lựu”, “dích dắc’, … Có cái một màu duy nhất nhưng phần lớn là hai, ba, thậm chí bốn năm màu, Mẹ vẫn kết hợp theo nhiều cách để có vẻ đẹp hài hòa. Hồi ở Việt Bắc, để tiết kiệm dầu dù chỉ là dầu dọc, dầu trẩu, thường đựng trong cái ống nứa nút lá chuối khô, buổi tối, mẹ âm thầm ngồi đan trong bóng đêm khi các con đã ngủ say. Có lần sáng hôm sau, mẹ phải tháo ra cả một đoạn dài vì đêm trước có chỗ bị “lỗi”. Suốt cho tới năm đã 30 tuổi, tôi toàn mặc những tấm áo len như thế do Mẹ đan. Và tất nhiên, 6 người em tôi, rồi tới các con tôi cũng đã mặc những tấm áo được kết bằng tấm lòng cùng thời gian, công sức của Mẹ. Chỉ bằng một đôi kim đan vót bằng tre, Mẹ đã biến những cuộn len cũ thành bao tấm áo ủ ấm cho các con, cho các cháu. Cứ miệt mài như thế, kiên nhẫn như thế suốt trong những năm kháng chiến gian khổ cho tới khi Mẹ đau yếu. Sinh ra trong một gia đình khá giả, cả bảy người con từ lớn tới bé đều có vú nuôi, nhưng Mẹ là con gái lớn nhất, theo lệ thường khi ấy, cũng chỉ được học hết tiểu học rồi phải ở nhà phụ giúp Bà ngoại việc làm ăn buôn bán. Những công việc quen thuộc của người phụ nữ thuộc “công, dung, ngôn, hạnh” Mẹ đều thành thạo để thu vén cho một gia đình đông con có những bữa cơm được cải thiện mỗi khi sum họp, chế biến những đồ ăn thức uống rẻ tiền sẵn có trở thành những món ăn hấp dẫn với nhiều giác quan, ai cũng chỉ có một số phiếu vải ít ỏi nhưng Mẹ vẫn khéo lo cho cả nhà có áo quần, chăn màn tươm tất. Mỗi lần có dịp qua Phú Thọ, những địa danh Chí Chủ, Vũ Yển, Đào Giã, rồi Thanh Cù, Yên Kỳ, Yên Luật, Ấm Thượng, Đoan Thượng,…trên cột cây số, trên những tấm biển chỉ đường đều nhắc tôi nhớ hình ảnh Mẹ thân hình mảnh mai, vai mang túi “dết” đạp cái xe của cơ quan cho mượn không chắn bùn chắn xích, về thăm bà cháu anh em chúng tôi trong những ngày tản cư. Sau này tôi mới hiểu, sinh ra lớn lên trong một gia đình truyền thống, Mẹ là người phụ nữ của gia đình với thiên chức làm vợ, làm mẹ, lo cho cái tổ ấm riêng của mình. Trong những ngày vô cùng gian khổ và thiếu thốn, Mẹ đã làm tốt nhất những gì có thể, cùng với Bố, nuôi dạy bảy anh em chúng tôi lớn khôn thành người hữu ích. Việc Mẹ tham gia kháng chiến, rồi vào đảng cũng chỉ là những việc “vạn bất đắc dĩ” do thời thế. Trong hoàn cảnh ấy, khi gặp người lãnh đạo tử tế, Mẹ phát huy được năng lực và phẩm cách của mình trong công việc của một nhân viên kế toán. Đức tính thẳng thắn và liêm khiết khiến Mẹ được nhiều người quý trọng. Còn nhớ bác Thi, người miền Nam tập kết, là Bệnh viên trưởng Bệnh viên Đường sắt bấy giờ (dù chỉ là y sĩ) đã cho Mẹ đi học, giới thiệu Mẹ vào đảng để rồi làm Trưởng phòng Tài vụ. Nhưng đầu những năm sáu mươi, bác Thi trở về Nam (đi B), những người lãnh đạo còn lại dần coi Mẹ là một chướng ngại trên con đường của họ. Trong những ngày sơ tán chống Mỹ, kể cả khi mưa nắng, rét buốt, Mẹ không biết bao nhiêu lần đạp xe vượt hơn 40 km từ Hà Nội lên Hương Canh theo con đường rải đá qua bến phà Chèm gập ghềnh để quyết làm sáng tỏ những khuất tất trong việc xây dựng nhà cửa ở khu sơ tán này. Rồi Mẹ được vận động về hưu sớm. Và Mẹ đã chấp nhận “chuyển công tác” về với công việc Mẹ yêu thích, chăm sóc chồng con, rồi các cháu. Cuộc sống thiếu thốn kéo dài, lại nhiều lần sinh nở cộng với những bệnh tật không được chữa trị kịp thời do thiếu thuốc men khiến những năm cuối cùng Mẹ sống trong đau yếu và ra đi khi tuổi chưa cao. Cái mùa đông cuối cùng của Mẹ, trời rét như cắt, căn nhà trống hoang trống huếch vì qua hơn bốn mươi năm không được sửa chữa, tôi cũng chỉ có cách ra chợ Trần Quý Cáp mua một cái bếp điện Liên Xô để Mẹ bớt lạnh vào ban đêm. Chỉ tiếc là sau đó không lâu, đời sống được dần cải thiện. Bây giờ, mỗi khi cả nhà sum họp bên những mâm cỗ với rất nhiều món ăn ngon lành, vẫn không quên được nồi bún bung Mẹ nấu vào ngày chủ nhật cho các con cháu “xì xụp”. Để thêm niềm vui cho cả nhà, suốt tuần Bố Mẹ phải “kiêng” thịt, dành tem phiếu mua xương hay chân giò, rồi chắt chiu từng “bò” gạo đổi bún chỉ mong được thấy các con các cháu quây quần, vui vẻ cười nói. Mẹ mất đã 25 năm, nhưng mỗi lần nhớ Mẹ, trong tôi vẫn văng vẳng lời khóc đầy xót thương của chú Cận, người em thứ hai của Mẹ khi khâm liệm. Chỉ có mấy tiếng mà sao ám ảnh mãi: Chị ơi! Cả đời chị khổ. Em lạy chị. (Nguồn: Xứ Nét)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét